Phần I
TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ
Trả lời câu hỏi (trang 138 SGK Ngữ văn 9, tập 1)
a. Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên:
Đoạn 1: Đây là suy nghĩ nội tâm của ông giáo trong truyện Lão Hạc của Nam Cao
a.
- Nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện…
- Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi.
- Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình.
- Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.
- Mình biết vậy nên mình chỉ buồn nhưng không nỡ giận.
=> Nêu vấn đề: Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác với họ.
b.Luận điểm:
+ Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh mình thì ta chỉ thấy toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương… Đây là luận điểm có tính chất đặt vấn đề.
+ Vợ tôi không ác, nhưng vì thị khổ quá rồi nên sinh ra ích kỉ, tàn nhẫn với người khác. Đây là luận điểm có tính chất phát triển lập luận, triển khai vấn đề nghị luận. Các luận chứng và lí lẽ được đưa ra: một người đau chân….; khi người ta khổ quá thì…
+ Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. Đây là luận điểm kết luận, kết thúc lập luận.
⟹ Với việc lập luận như trên, tác giả đã "kể được" câu chuyện về nỗi giằng xé, trăn trở, bi kịch bên trong con người; khẳng định về quan điểm nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc đời. Đồng thời, phác ra được thực trạng nhân sinh cùng khổ trong bối cảnh xã hội đầu thế kỉ XX.
Về hình thức, đoạn văn trên chứa rất nhiều từ, câu mang tính lập luận. Đó là các câu hô ứng thể hiện các phán đoán dưới dạng nếu thì; vì thế... cho nên, sở dĩ... là vì; khi A... thì B... Các câu văn trong đoạn trích đều là những câu khẳng định, ngắn gọn, khúc chiết như diễn những chân lý.
Đoạn 2:
a. Qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, có thể thấy cuộc đôi thoại giữa Kiều và Hoạn Thư được diễn ra dưới hình thức nghị luận. Hình thức này rất phù hợp với một phiên tòa. Trước tòa án, quan trọng nhất là người ta phải trình bày lý lẽ, chứng lý, nhân chứng, vật chứng... sao cho có sức thuyết phục. Trong phiên tòa này, Kiều là luật sư buộc tội, còn Hoạn Thư là bị cáo. Mỗi bên đều có lập luận của mình.
b.
- Lập luận của Thúy Kiều:
+ Xưa nay, đàn bà có mấy người ghê ghớm, cay nghiệt như mụ
+ Càng cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái (Đây là kiểu câu khẳng định).
- Lập luận của Hoạn Thư:
+ Thứ nhất: mình là đàn bà, ghen tuông là chuyện bình thường.
+ Thứ hai: mình đã đối xử rất tốt với cô khi cô chép kinh ở "Quan Âm Các".
+ Thứ ba: mình và cô đều là cảnh chồng chung nên chẳng nhường cho nhau được...
+ Thứ tư: dù sao mình đã gây ra nhiều đau khổ cho cô, giờ đây mình chỉ còn trông vào lòng khoan dung rộng lớn của cô.
- Hình thức: Thúy Kiều sử dụng hình thức câu khẳng định, càng...càng => Khẳng định tội ác của Hoạn Thư.
Luyện tập 1
Trả lời câu 1 (trang 139 SGK Ngữ văn 9, tập 1)
Lời văn trong đoạn trích (a) mục I.1 là lời của ông giáo, ông giáo đối thoại với chính mình, thuyết phục chính mình, rằng vợ mình không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.
Luyện tập 2
Video hướng dẫn giải
Trả lời câu 2 (trang 139 SGK Ngữ văn 9, tập 1)
Lập luận của Kiều thể hiện ở mấy câu đầu. Sau câu chào mỉa mai là lời đay nghiến: xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm, cay nghiệt như mụ, và xưa nay càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái. Hoạn Thư trong cơn “hồn lạc phách xiêu” ấy vẫn biện minh cho mình bằng một đoạn lập luận thật xuất sắc. Trong 8 dòng thơ, Hoạn Thư nêu lên 4 “luận điểm”:
- Thứ nhất: Tôi là đàn bà nên ghen tuông là chuyện thường tình (nêu một lẽ thường).
- Thứ hai: Ngoài ra tôi cũng đã đối xử rất tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo (kể công).
- Thứ ba: Tôi với cô đều trong cảnh chồng chung, chắc gì ai nhường cho ai.
- Thứ tư: Nhưng dù sao tôi cũng đã trót gây đau khổ cho cô nên bây giờ chỉ biết trông chờ vào lượng khoan dung rộng lớn của cô (nhận tội và đề cao, tâng bốc Kiều).
Với lập luận trên, Kiều phải công nhận tài của Hoạn Thư là “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Và cũng chính nhờ lập luận ấy mà Hoạn Thư đã đặt Kiều vào một tình thế rất khó “xử”:
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
ĐỊA LÍ DÂN CƯ
Văn biểu cảm
Đề thi vào 10 môn Toán Bình Phước
Unit 9: English in the world
Đề thi vào 10 môn Văn Thừa Thiên - Huế